NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ BỆNH GÚT
-
Nội dung chính
- CƠ CHẾ SINH BỆNH:
- ĐIỀU TRỊ:
- ĐIỀU TỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN:
- TIÊN LƯỢNG:
Bệnh Goutte (hay hội chứng Goutte) là danh từ dùng để chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý. Gồm nhiều thời kỳ viêm khớp tái đi tái lại. Tương ứng với sự hiện diện của các tinh thể acid uric hoặc tinh thể muối urat ở trong dịch khớp. Khởi phát cấp tính, thường xuất hiện vào ban đêm và thường ở một khớp, hay gặp là khớp bàn ngón chân cái.
Sau khi hết viêm, da thường bong vảy và ngứa. Hầu hết bệnh nhân có tăng acid uric máu, tìm thấy tinh thể urat trong dịch khớp hoặc hạt tophi. Có các giai đoạn không triệu chứng xen kẽ giữa những cơn gút. Đáp ứng nhanh với các thuốc chống viêm giảm đau không steroid hoặc colchicin. Ở thể mạn tính, có lắng đọng tinh thể urat ở mô dưới da, sụn, xương, khớp và những tổ chức khác.
Có hai loại chính:
Goutte nguyên phát: có tính chất di truyền.
Goutte thứ phát: Thường là hậu quả tiến triển của một bệnh hay là hậu quả của việc sử dụng thuốc lâu ngày. (Như thuốc lợi tiểu, aspirin liều thấp).
Tần suất xuất hiện: 90% trường hợp Goutte nguyên phát xảy ra ở đàn ông. Nếu ở phụ nữ chỉ thấy xảy ra ở tuổi mãn kinh mà thôi. Goutte thứ phát hay gặp ở phụ nữ mắc bệnh tim mạch, có tăng huyết áp hoặc những bệnh nhân có bệnh ác tính về máu, bị bệnh thận mạn hoặc bị ngộ độc chì.
Biểu hiện lâm sàng:
hình ảnh gút
a. Giai đoạn nồng độ acid uric trong máu cao và chưa biểu hiện trên lâm sàng: Hay gặp ở nam lúc tuổi dậy thì và nữ lúc tuổi mãn kinh. Có thể xuất hiện cơn đau quặn thận (10 - 40%) do sỏi urat trước.
b. Giai đoạn Goutte cấp tính: Goutte cấp tính được biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính và dữ dội của ngón chân cái (khớp bàn ngón), thường xảy đến bất thình lình.
Cơn Goutte cấp có thể khởi phát sau một số điều kiện thuận lợi như:
− Sau một bữa ăn nhiều thịt rượu.
− Sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
− Lao động nặng, đi lại nhiều, mang giày quá chật.
− Xúc động, cảm động.
− Nhiễm khuẩn cấp.
− Sau khi dùng một số thuốc lợi tiểu như nhóm chlorothiazid, tinh chất gan, vitamin B12, steroid… Khoảng 50% bệnh nhân có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đái nhiều và nóng buốt, sốt nhẹ…
Cơn thường xảy ra vào ban đêm, khoảng 2 - 3 giờ sáng: đau nhức dữ dội ở khớp bàn ngón chân cái, càng lúc càng đau nhiều, đến nỗi đụng vào tấm chăn mền cũng không sao chịu được. Cơn đau kéo dài đến sáng thì dịu dần, đến đêm hôm sau lại bắt đầu đợt đau như cũ. Một cơn Goutte cấp tính có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân có sốt, có thể kèm theo rét run, nhiệt độ từ 38 - 390C. Sốt càng cao nếu bệnh nhân càng đau nhiều. Nơi khớp đau nhức sẽ có dấu hiệu viêm khớp cấp, da đỏ láng, phù nhẹ, có nhiều tĩnh mạch nổi lên. Hết cơn, bệnh nhân sẽ ngứa ở khớp, tróc da, khớp bị cứng từ 1 - 2 ngày rồi trở lại bình thường không di chứng. Cơn cấp tính có thể tái phát nhiều lần, 7% không có cơn Goutte cấp lần II, nhưng phần lớn cơn Goutte cấp lần II xảy ra từ sau một năm cho tới 10 năm.
c. Goutte mạn tính: Diễn tiến chậm, có thể có hoặc không có, kèm theo các đợt cấp. Nếu có các đợt này xảy ra ít hơn, thời gian đau ngắn hơn. Goutte mạn biểu hiện bằng dấu hiệu nổi ở các u cục (tophi) và viêm đa khớp mạn tính, do đó gọi là Goutte lắng đọng. Tophi là những cục tinh thể acid uric hoặc muối urat có ở màng khớp, sụn khớp, gân cơ, mô dưới da. Tophi xuất hiện một cách kín đáo, lớn chậm, không di động, cứng dần, hình thể không đều. Không đau nhưng sự hiện diện ở khớp có thể làm cứng dần và đưa tới biến dạng khớp. Da nơi tophi xuất hiện dễ bị loét, rò lỗ, chảy ra một chất trắng như phấn. Tophi ít khi bị nhiễm trùng nhưng nếu bội nhiễm rất khó chữa lành. Biến dạng khớp: khớp nào ở giai đoạn Goutte mạn tính cũng đều có thể bị tổn thương cả. Thường bị thương tổn ở nhiều khớp một lúc và là các khớp nhỏ ngoại biên. Khớp không đau lúc nghỉ ngơi nhưng đau và cứng khớp khi hoạt động.
d. Biến chứng nội tạng: Khoảng 1/3 trường hợp bệnh nhân đau sau cơn Goutte có cơn đau quặn thận do có sự thành lập sỏi urat. Một số bệnh nhân có chức năng thận thay đổi, diễn tiến bệnh thận rất chậm. Biểu hiện cận lâm sàng
− Acid uric máu tăng.
− Bạch cầu tăng
− Tốc độ lắng máu bình thường hoặc tăng ít.
− Dịch khớp đục.
− Bạch cầu tăng nhiều 10.000 - 70.000/mm3; phần lớn là bạch cầu đa nhân, lượng mucin giảm, nồng độ glucose và acid uric tương tự như trong máu.
− X quang khớp:
+ Goutte cấp chưa có biến đổi trên X quang.
+ Goutte mạn: Khoảng cách 2 đầu xương hẹp lại, có hiện tượng mọc thêm xương ở đầu xương và có hiện tượng tạo hang ở trong xương.
CƠ CHẾ SINH BỆNH:
Khi lượng acid uric trong máu tăng cao (trên 7mg% hay 416,5àmol/l). Và tổng lượng acid uric trong cơ thể tăng thì sẽ lắng đọng lại ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể acid uric hay urat monosodic.
− Lắng đọng ở màng hoạt dịch gây viêm khớp.
− Lắng đọng ở thận (nhu mô thận và đài bể thận).
− Lắng đọng ở các nội tạng và cơ quan, gây các biểu hiện bệnh Goutte ở nơi này:
+ Sụn xương, sụn khớp, sụn vành tai, thanh quản.
hình ảnh axit uric tại khớp
+ Gân: gân Achille, các gân duỗi các ngón.
+ Tổ chức dưới da: khuỷu, mắt cá, gối.
+ Thành mạch, tim.
+ Mắt. Trong bệnh Goutte, urat monosodic lắng đọng ở thành hoạt dịch sẽ gây một loạt các phản ứng:
• Hoạt hóa yếu tố Hageman tại chỗ, từ đó kích thích các tiền chất gây viêm. Như kininigen và kallicreinogen trở thành kinin và kallicrein gây phản ứng viêm ở thành hoạt dịch.
• Từ phản ứng viêm các bạch cầu sẽ tập trung tới. Bạch cầu sẽ thực bào các vi tinh thễ urat rồi giải phóng các men tiêu thể của bạch cầu (lysozym) các men này cũng là một tác nhân gây viêm rất mạnh.
• Phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh nhiều acid lactic tại chỗ và giảm độ pH. Môi trường càng toan thì urat càng lắng đọng nhiều. Vậy nên phản ứng viêm ở đây trở thành một vòng khép kín liên tục, viêm sẽ kéo dài. Do đó trên lâm sàng thấy 2 thể bệnh Goutte:
• Thể bệnh Goutte cấp tính, quá trình viêm xảy ra trong một thời gian ngắn rồi chấm dứt, rồi lại tái phát.
• Thể bệnh Goutte mạn tính quá trình lắng đọng urat nhiều và kéo dài, biểu hiện viêm liên tục không ngừng.
ĐIỀU TRỊ:
Các thuốc chống viêm không steroid: Các thuốc chống viêm giảm đau không steroid là những thuốc đã được lựa chọn để điều trị gút cấp tính. Cổ điển thường dùng Indomethacin, song các thuốc chống viêm không steroid khác cũng có hiệu quả tương tự.
Colchicin: Colchicin cũng rất có hiệu quả trong điều trị gút cấp song ít được ưa dùng hơn. Bởi vì có tới 80% bệnh nhân dùng thuốc bị trướng bụng, ỉa chảy, buồn nôn hoặc nôn. Người ta cho rằng colchicin ức chế hiện tượng hóa ứng động, ngăn cản phản ứng viêm đối với tinh thể urat. Do vậy nó rất có tác dụng khi dùng trong những giờ đầu bị bệnh.
Thuốc giảm đau: Trong cơn gút cấp, khi bệnh nhân có đau nhiều, có thể phải dùng thêm các thuốc giảm đau trước khi các thuốc đặc hiệu phát huy tác dụng. Thường dùng codein hoặc meperidin, tránh dùng aspirin.
Nghỉ ngơi tại giường: Nghỉ ngơi tại giường rất quan trọng trong điều trị cơn gút cấp và nên tiếp tục ít nhất 24 giờ sau khi bệnh đã lui. Đi lại sớm có thể làm cho cơn tái phát. Phương pháp điều trị lý liệu ít có hiệu quả trong cơn gút cấp. Tuy nhiên áp nóng hoặc lạnh hoặc kê cao khớp bị viêm có thể làm cho người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn.
VIÊM KHỚP MẠN TÍNH CÓ TOPHI:
Các hạt tophi có thể nhỏ đi hoặc biến mất khi được điều trị với allopurinol. Để làm mất những hạt tophi lớn đòi hỏi phải duy trì nồng độ acid uric huyết thanh dưới 5 mg/dl. Điều này chỉ có thể đạt được khi dùng đồng thời allopurinol và một thuốc tăng đào thải acid uric. Phẫu thuật cắt bỏ những hạt tophi lớn có thể cải thiện chức năng vận động ở một số bệnh nhân có biến dạng nặng, song ít khi cần thiết.
NGUYÊN NHÂN BỆNH SINH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN:
Goutte (hay thống phong) được mô tả như trên nằm trong phạm trù chứng tý. Thể hàn tý, thấp tý, hàn thấp tý và chứng lịch tiết phong. Nguyên nhân bệnh là do ba thứ tà khí phong, hàn, thấp. Vào tích tụ lâu ngày trong cơ thể, mà cơ thể lại có can thận bất túc: can hư không nuôi dưỡng được cân mạch; thận hư không làm chủ được cốt tủy. Hư nhiệt kết hợp với khí huyết ứ trệ do tà khí tích tụ gây bế tắc làm cho khớp xương sưng nóng đau không co duỗi vận động được. Đau càng dữ dội về đêm, trời lạnh đau tăng, chườm nóng đỡ đau. Nếu bệnh tiến triển nhanh và mạnh hơn thì gọi là bạch hổ lịch tiết.
ĐIỀU TỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN:
1. Goutte nguyên phát :
Y học cổ truyền mô tả trong chứng thống tý hay hàn tý. Đau dữ dội ở một khớp trời lạnh đau tăng, đêm đau nhiều không ngủ được. Hàn khí nhiều hay hành bệnh đi xuống làm cho khớp xương, da thịt 2 chân nặng nề hoặc sưng nhức.
Phép chữa chung:
tán hàn, khu phong, trừ thấp và hành khí hoạt huyết.
a. Thể hàn tý
Phép trị: tán hàn làm chính, sơ phong táo thấp làm phụ và gia thêm thuốc ôn thông vì tính chất của hàn là ngưng trệ.
Các bài thuốc:
+ Bài Độc hoạt tang ký sinh thang gia thêm các vị thuốc như phụ tử 8g, quế chi 8g
+ Bài Ô đầu thang gia giảm gồm: Phụ tử chế 8g, ma hoàng 12g, bạch thược 12g. Hoàng kỳ 12g, phục linh 12g, cam thảo 8g.
Lịch tiết phong:
− Nếu ở giai đoạn cấp khớp sưng to, đau nhức dữ dội, co duỗi khó khăn, phát sốt thì dùng bài. Bạch hổ quế chi thang gia vị. (Gồm: thạch cao, quế chi, tri mẫu, thương truật, hoàng bá, tang chi, ngạnh mễ, phòng kỷ).
− Nếu qua giai đoạn cấp thì dùng bài. Độc hoạt tang ký sinh gia giảm. (gồm: độc hoạt, phòng phong, tang ký sinh, tế tân, tần giao, đương quy, đảng sâm, phục linh, ngưu tất. Đỗ trọng, quế chi, thục địa, bạch thược, phụ tử chế, cam thảo).
2. Goutte thứ phát :
Tùy thuộc vào thể bệnh chính kèm theo Goutte như thận âm hư, can âm hoặc can huyết hư, tỳ thận dương hư. Mà dùng bài thuốc cho thích hợp nhưng vị thuốc chính là lá sa kê từ 20 đến 30g.
− Dùng độc vị lá sa kê 50g sắc uống dưới dạng trà hằng ngày. Kèm thêm bài thuốc Lục vị nếu có thận âm hư; kèm thêm bài thuốc Bát vị nếu có tỳ thận dương hư .v.v….
TIÊN LƯỢNG:
Khi không được điều trị, cơn goutte cấp có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Điều trị thích hợp thường làm hết cơn nhanh chóng. Thời gian giữa các đợt cấp có thể dài ngắn khác nhau, có thể tới hàng năm. Song thời kỳ không triệu chứng ngày càng ngắn hơn nếu bệnh tiến triển. Viêm khớp mạn tính có tophi xuất hiện sau một số đợt cấp nhưng chỉ khi bệnh nhân không được điều trị đầy đủ. Mặc dù biến dạng khớp có thể nặng song chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ bệnh nhân phải nằm liệt giường. Khởi phát của bệnh lúc tuổi càng trẻ thì bệnh có xu hướng tiến triển càng nặng. Tổn thương phá hủy khớp hiếm khi thấy ở những bệnh nhân có cơn goutte cấp đầu tiên xuất hiện ở sau tuổi 50. Những bệnh nhân gút có tỷ lệ cao bị tăng huyết áp, bệnh nhân (như xơ hóa thận, tophi, viêm thận bể thận).
Đái tháo đường, tăng triglycerid máu và vữa xơ động mạch. Tuy nhiên những hiểu biết về mối liên quan này còn chưa đầy đủ. Phòng khám Đông Y Sinh Long Đường đã điều trị thành công hàng nghìn bệnh nhân trong nước thoát khỏi bệnh gút.
Hãy liên hệ với phòng khám để các bác sỹ tư vấn chế đọ sinh hoạt cũng như các bài thuốc tại nhà.
Giúp làm giảm các triệu chứng đau nhanh chóng và các biến chứng.
Hãy liên hệ :
ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ : Phòng khám chuyên khoa YHCT SINH LONG ĐƯỜNG
Địa chỉ; Địa chỉ: Cơ sở 1:xóm Mới,Kiều Đoài,Đại Xuyên,Phú Xuyên,HN
TEL 0343 86 86 85
Cơ sở 2: đối diện CT8A Đại Thanh ,Tả Thanh Oai,Thanh Trì ,HN
TEL 094 28 25 768
✪ Khám chữa bệnh ngoài giờ hành chính: từ 8h00 - 20h30 tất cả
các ngày trong tuần kể cả thứ 7 chủ nhật và ngày lễ
- Quý vị và các bạn cần tư vấn về sản phẩm hoặc cần gửi sản phẩm tới nhà riêng, xin vui lòng liên hệ:
Tổng đài tư vấn: 0343.86.86.85 HOẶC 094.28.25.768